Mục lục bài viết
1. Hiểu ngành bán lẻ một cách đúng đắn.
1.1 Bán lẻ là một ngành rộng lớn & tràng đầy cơ hội
Đúng vậy, ngay cả những CEO hàng đầu trong ngành bán lẻ cũng không thể tự xưng là chuyên gia toàn diện.
Ron Johnson, từng là phó chủ tịch huyền thoại phụ trách các cửa hàng bán lẻ đầu tiên của Apple, sau đó thành công vang dội với chuỗi siêu thị Target. Nhưng lại thất bại khi cố gắng tái cấu trúc JC Penney, gây tổn thất hàng tỷ USD.
Eddie Lampert, một nhà quản lý trẻ tuổi tài ba từng thành công với vô số khoản đầu tư vào các hãng bán lẻ như AutoZone, Auto-Nation Inc, K-Mart, cũng gặp khó khăn khi dẫn dắt Sears, khiến hãng này thua lỗ suốt 13 năm và cuối cùng phá sản.
Tựu chung lại, ngành bán lẻ rộng lớn khôn cùng:
– Mỗi mảng bán lẻ đều có những đặc thù kinh doanh, ký quyết và triển vọng dài hạn khác nhau.
– Mỗi mảng bán lẻ có thể được coi là lĩnh vực tiêu dùng thiết yếu/chu kỳ tuỳ thuộc vào đặc tính sản phảm.
– Mỗi mảng bán lẻ có thể có mức định giá cách xa nhau đến kinh ngạc.
Vì thể, để hiểu sau hơn về một ngành có quy mô lớn như vậy, nhất thiết phải phân loại chúng ra một cách thông minh. Trước đây, các nhà nghiên cứu chia bán lẻ thành ba loại chính:
- Trung tâm thương mại (department store);
- Cửa hàng bán lẻ chuyên dụng (specialty store)
- Cuối cùng là chuỗi siêu thị giảm giá lớn (discount mega store).
Tuy nhiên, trên quan điểm cá nhân, chúng tôi cho rằng cách phân loại như vậy hơi chung chung, chưa nêu bật được các chuỗi ở ngày nay. Trong khi đó, giới chuyên gia đã phân ngành bán lẻ thành 5 loại khá logic như sau:
Trong đó thương mại điện tử (E-commerce) được coi là loại hình “phá hủy” truyền thống, dự báo sẽ thay thế phần lớn các nhóm khác tại Việt Nam trong tương lai.
Tuy nhiên, ngành bán lẻ niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam chưa phản ánh hết quy mô gần 200 tỷ USD/năm của thị trường. Với dân số trẻ, quá trình đô thị hóa và dòng vốn FDI, ngành bán lẻ Việt Nam có tiềm năng tăng trưởng lớn và tạo cơ hội dài hạn cho các nhà đầu tư thông minh.
1.2 Điểm chung của các hãng bán lẻ:
Dù triển vọng dài hạn khá hấp dẫn, song lĩnh vực bán lẻ chắc chắn không dành cho mọi người. Với đặc thù phân mảnh ở những ngành có nhu cầu ổn định thiết yếu, và cạnh tranh, thậm chí với cả các ông lớn từ nước ngoài. Do đó, NĐT cá nhân cần hiểu rõ những điểm mạnh và điểm yếu đặc thù trước khi quyết định đầu tư.
(1) Giá trị thức của ngành bán lẻ chủ yếu đựa trên các tài sản vô hình – “intangibles”
Người viết cho rằng “retailing” là một lĩnh vực hiếm hoi mà lợi thế cạnh tranh và giá trị tài sản của công ty chủ yếu dựa trên những giá trị vô hình đòi hỏi sự am hiểu để có thể đánh giá, chẳng hạn như: đội ngũ quản tri, chất lượng dịch vụ, uy tín thương hiệu, độ phủ cửa hàng, cách bố trí cửa hàng đẹp mắt và tận thiện (giao diện web nếu là hãng TMĐT), hệ thống công nghệ quản lý (ERP) và chăm sóc khách hàng (CRM), v.v
Chính vì những lợi thế vô hình khó có thể bắt chước này, những kẻ thắng cuộc hoặc đang tăng trưởng nhanh thường có mức tỷ suất sinh lời trên vốn chủ (ROE) cao đáng kinh ngạc. Bên cạnh đó là biên lợi nhuận vượt trội so với các đối thủ cùng ngành.
Điển hình, MWG với dịch vụ khách hàng tốt cùng đồ phủ rộng, PNJ với thương hiệu uy tín hơn 30 năm và đội ngũ chế tác kim hoàn hàng đầu đều có mức ROE hơn 20-30% duy trì trong nhiều năm liền.
Tuy nhiên, đánh giá tiềm năng các công ty nhỏ hơn hoặc chưa niêm yết là thử thách không dễ, đòi hỏi sự am hiểu sâu sắc.
Chính vì vậy, nhiều doanh nghiệp bán lẻ sẽ không phù hợp với các nhà đầu tư giá trị, ưa thích các cổ phiếu giá hời (bargains).
Ngược lại, nó chỉ phù hợp với những người sẵn sàng trả mức P/E và P/B cao do các công ty này thường có tỷ suất sinh lời trên vốn cao. Song nếu như ta nhìn nhận sai, hoặc lợi thế cạnh tranh của hãng bán lẻ dần biến mất, ta có thể mất phẩn lớn vốn liếng cửa mình…
(2) tầm quan trọng của độ phủ rộng- “economies of scale” – đến thành công của chuỗi bán lẻ
Khác với sản xuất hoặc dịch vụ tiện ích, nơi một vài nhà máy lớn có thể cung cấp cho toàn quốc, bán lẻ đòi hỏi mạng lưới cửa hàng đủ dày để tối ưu hóa sức mạnh đàm phán, tăng độ nhận diện thương hiệu và giảm phụ thuộc địa lý.
Tuy nhiên, việc một cửa hàng thành công không có nghĩa răng việc nhân rộng cửa hàng đó nhiều địa điểm sẽ thành công. Nếu đội ngũ quản lý không đủ năng lực, khâu quản lý chất lượng khó dảm bảo hoặc nhu cầu cho sản pẩm đó không đủ lớn.
Chính vì vậy, chúng tôi cho rằng nếu độc giả tìm ra được các chuỗi bán lẻ có quy mồ từ 50-100 cửa hàng trở lên ở nhiều tỉnh khác nhay, song vẫn giữ được mức doanh số/cửa hàng cao, tỷ suất ROIC tốt qua nhiều chu kỳ kinh tế, thì đó hầu như thể hiện được trình độ quản lý của người lãnh đạo, và là một khoản đầu tư tuyệt vời!
(3) Cỗ máy tạo tiền B2C, ít phụ thuộc vào một vài khách hàng lớn, khoản phải thu thấp
Tiếp nối đặc điểm thứ hai, khi một hãng bán lẻ đã trở thành chuỗi lớn với mức doanh số nhất định, thì có thể họ sẽ là một cỗ máy tạo tiền rất ổn định và tuyệt vời.
Thứ nhất, do quy mô lớn, họ có sức mạnh đàm phán (bargaining power) cao với các nhà cung cấp. Từ đó có thể trả chậm cho hàng hóa của nhóm này, đồng thời hưởng chiết khấu cao cho việc bày trí hàng hóa của nhóm này ở những vị trí tốt.
Các chuỗi siêu thị bách hóa tại đô thị lớn như Coop-mart, Lotte, BigC là ví dụ cụ thể. Họ thường nhận nhiều mức chiết khấu lên đến 40% doanh số, cộng thêm tiền hoa hồng để bày trí sản phẩm dễ nhìn hơn.
Chuỗi Thegioididong của MWG cũng nhận được khoản tiền bồi hoàn (subvention) đáng kể từ các hãng di động muốn bày trí sản phẩm cho khách hàng dùng thử, hoặc các công ty tài chính cho vay tiêu dùng muốn đặt bàn ghế tại cửa hàng để tư vấn khách hàng.
Thứ hai, ở đầu ra, trái với các mô hình kinh doanh B2B, hàng hóa thô sơ, cạnh tranh cao như xi măng, phân bón, thủy sản, dệt may, xây dựng, v.v có khoản phải thu và công nợ vô cùng lớn, chuỗi bán lẻ thường thu tiền ngay từ khách hàng, dẫn đến rủi ro về nợ xấu của họ thường rất thấp.
(4) Quản trị hàng tồn kho – “inventory management” – là yếu tố sống còn trong bán lẻ
Rất hiếm khi, một người chủ của một hãng bán lẻ nào đó sẵn sàng chia sẻ bí quyết quản trị hàng tồn kho của anh ta.
Đây dường như là lợi thế cạnh tranh, bí quyết sống còn của doanh nghiệp. Việc phải trưng bày bao nhiêu mặt hàng trong cửa hàng, đặt mặt hàng nào ở đâu, nhập vào mùa nào, khuyến mãi như thế nào, chính sách đổi trả ra sao cho không rủi ro, đều là những kinh nghiệm đã trải qua đủ trong quá trình kinh doanh để đúc kết nên.
Vì lẽ đó, một vài chỉ tiêu như vòng quay hàng tồn kho (inventory turnover), tỷ lệ vay ngắn hạn đảm bảo bằng tồn kho là vô cùng quan trọng để một nhà đầu tư đánh giá.
Những công ty có chính sách quản trị tồn kho tốt, tăng trưởng nhanh, hoặc trên đà hồi phục sau chu kỳ, sẽ có tỷ lệ vòng quay tồn kho cao hơn trung bình ngành và nợ vay giảm dần.
Ngược lại, những doanh nghiệp chịu nhu cầu sụt giảm, cạnh tranh, hoặc có tình hình dòng tiền yếu kém sẽ có vòng quay hàng tồn kho giảm dần, và nợ vay ngắn hạn ngày một cao hơn tương quan với vốn chủ và lợi nhuận hằng năm.
(5) Cạnh tranh và nhu cầu của khách hàng thay đổi liên tục, trường kỳ – thậm chí bị đe dọa bởi công nghệ mới
Khác với các ngành như tiêu dùng, viễn thông, hay ngân hàng, nơi chủ doanh nghiệp chỉ cần duy trì thương hiệu và uy tín để thu lợi ổn định, ngành bán lẻ yêu cầu sự linh hoạt và khả năng đổi mới liên tục.
Đối với ngành bán lẻ, sự thay đổi liên tục của thị hiếu người tiêu dùng, sự cạnh tranh khốc liệt của hàng loạt các đối thủ ăn theo, và thậm chí cả những thứ công nghệ mang tính thay thế, khiến một người chủ hoặc cổ đông của các hãng bán lẻ khó bao giờ có một phút nào được ngơi nghỉ cả.
Từ việc mở rộng chuỗi nhà hàng cho đến việc đối mặt với khách hàng phàn nàn, chất lượng giảm sút, nhân viên nghỉ việc hay các đối thủ gia nhập thị trường với mô hình bán hàng trực tuyến, mọi thứ đều khiến người chủ lo lắng.
Vì vậy, đầu tư vào ngành bán lẻ là một thử thách lớn. Với ban quản lý thụ động, bảo thủ sẽ khó thành công, chỉ những nhà lãnh đạo linh hoạt và luôn cập nhật thị trường mới có thể đạt được sự thành công bền vững.
2. Những nhân tố đáng lưu ý khi đầu tư cổ phiếu ngành bán lẻ
Sau khi hiểu được độ rộng lớn và một vài bản chất kinh tế của ngành bán lẻ, nhà đầu tư cá nhân cần hình thành nên một mẫu hình tư duy giúp anh ta chọn lựa được những công ty phù hợp.
Ở phần này, nhờ kết hợp giữa những chia sẻ của ngài Peter Lynch – một trong những nhà đầu tư lĩnh vực bán lẻ chúng tôi cho là thành công bậc nhứt thế giới (câu chuyện dưới) – và những kinh nghiệm thực tế của riêng chúng tôi, chúng tôi đề xuất 4 nhóm nhân tố đáng lưu ý trước khi ta quyết định đầu tư vào doanh nghiệp bán lẻ:
2.1 Trải nghiệm thực tế
Không giống như các lĩnh vực sản xuất khác như phân bón, thép hay các mỏ dầu khí ngoài biển khơi, điểm lợi khi đầu tư vào lĩnh vực bán lẻ chính là việc NĐT cá nhân có thể trải nghiệm và đánh giá hoạt động kinh doanh của công ty tựa như người chủ vậy. Còn nếu anh ta ngồi bàn giấy, tự suy luận, nhiều khả năng anh ta sẽ gặp sai sót và chậm trễ trong việc nhìn nhận các xu hướng mới.
Ngài Peter Lynch từng kể về cái thú đi “shopping” cổ phiếu của ông trong các trung tâm thương mại, đi dạo phố, nghe sao cảm hứng vô cùng: “Nếu bạn thích dịch vụ của công ty như một khách hàng (customer), nhiều khả năng bạn cũng sẽ thích cổ phiếu của công ty đó.”
Vì vậy, chúng tôi xin gợi ý một vài nhân tố ta có thể xem xét khi trải nghiệm tại một cửa hàng/điểm dịch vụ bán lẻ:
Thiết kế cửa hàng:
Liệu cửa hàng, siêu thị hay giao diện web có sáng sủa, thân thiện và tiện lợi cho khách hàng? Liệu vẻ ngoài của nó có quá sang trọng, hay quá tồi tàn? Công ty bày trí sản phẩm như thế nào, có quá thưa thớt hay quá dày đặc?
Khi bước vào một cửa hàng, nếu bạn cảm thấy sáng sủa, thân thiện, mọi thứ đều hợp lý và tự nhiên bạn thôi thúc muốn xem các sản phẩm, nhiều khả năng đằng sau đó là công sức rất lớn của bộ phận quản lý & thiết kế để tạo ra môi trường hoàn hảo như vậy cho khách hàng.
Dịch vụ chăm sóc khách hàng:
Khía cạnh dịch vụ khách hàng của một hãng bán lẻ chúng tôi cho là tương đối khó để đánh giá, bởi vì nó phụ thuộc chủ quan của mỗi cá nhân, thậm chí thiếu tính chính xác do phụ thuộc vào cục bộ nhân viên của mỗi cửa hàng thay vì bức tranh lớn.
Do đó, chúng tôi cho rằng một giải pháp hay chính là việc ta nên đi đến ít nhất 4-5 cửa hàng khác nhau, ở những vị trí địa lý khác nhau của hãng để trải nghiệm thử liệu dịch vụ khách hàng của công ty có đồng nhất.
Hơn nữa, ta cần đánh giá liệu giá cả và chất lượng sản phẩm có đạt yêu cầu. Thái độ cởi mở, lịch sự và cách nhân viên hành xử với các tình huống khiếu nại, đổi trả cũng là những phép thử hay nhất cho dịch vụ khách hàng của một hãng bán lẻ.
Lượng khách thường xuyên (foot traffic):
Những nhà đầu tư cá nhân có điều kiện địa lý gần, hoặc có thời gian rỗi, có thể dành mỗi tuần đi dạo những cửa hàng để kiểm tra lượng khách thường xuyên (foot traffic) để biết rằng công ty đang ăn nên làm ra, hoặc đang bắt đầu ở bên kia sườn dốc.
2.2 Những con số tài chính
Khi chấp nhận trả mức P/E và P/B cao, điều mà nhà đầu tư năng động đòi hỏi ở một cổ phiếu bán lẻ, chính là mức tăng trưởng hợp lý và khả năng sinh lời vượt trội:
Doanh thu trên mỗi cửa hàng hiện hữu (“same stores sales – SSS”):
Ngài Peter Lynch có thể nói là một trong những lá cờ đầu trong giới đầu tư, đề cao tầm quan trọng của con số “doanh thu trên mỗi cửa hàng hiện hữu” (SSS).
Same stores sales: doanh thu của một cửa hàng đã mở mới được trên 12 tháng – so với cùng kỳ năm trước để có được con số tăng trưởng.
Đây cũng là một công cụ để nhà quản lý xem xét chiến lược của công ty. Nếu SSS tăng mạnh (hai chữ số % chẳng hạn), đó là dấu hiệu anh ta cần mở rộng chuỗi của mình một cách tích cực. Còn nếu SSS bắt đầu giảm, hoặc rơi về mức gần 0%, đó là dấu hiệu lĩnh vực anh ta đã bão hòa, khu vực địa lý đó đã được phủ hết hoặc đơn giản chỉ là thị hiếu khách hàng đã thay đổi.
Về bản chất, tăng trưởng doanh thu mà không đi kèm với tăng trưởng SSS thì cũng giống như “dã tràng xe cát biển Đông vậy”.
Nếu toàn bộ doanh số tăng lên của chuỗi đều đến từ việc mở mới (open) các cửa hàng, điều này sẽ khiến công ty lâm vào cảnh sau vài năm tăng nóng, các cửa hàng không tự xoay trở được dòng tiền và công ty phải gia tăng nợ vay lớn để duy trì hoạt động – bất chấp con số doanh thu có lớn cách mấy.
Tuy nhiên, SSS cũng có mặt hạn chế – SSS đôi khi tăng lên hầu hết do việc tăng giá thay vì tăng lượng khách giao dịch (foot traffic) – và đây là mức tăng chưa hẳn là bền vững. Ngoài ra, những trang TMĐT như Amazon, Rakuten, Alibaba đương nhiên sẽ không đo lường theo cửa hàng, mà lại theo lượng khách mở tài khoản (subscribers) hoặc các con số tương tự.
Một điểm hạn chế khác chính là con số này thường không công khai cho mọi NĐT cá nhân, mà hầu như chỉ được chia sẻ trong các buổi họp riêng, hoặc chỉ khi ban quản trị được hỏi đến. Do đó NĐT có thể:
- đọc các báo cáo phân tích của các CTCK hàng đầu về cổ phiếu đó, chúng tôi cho rằng hầu như họ đều đề cập đến SSS của các chuỗi bán lẻ
- nếu không có báo cáo phân tích, NĐT cá nhân có thể gọi điện hỏi ban lãnh đạo hoặc ban quan hệ cổ đông cung cấp
- trường hợp xấu nhất, anh ta có thể kiểm tra định tính bằng cách quan sát thông qua “foot traffic” ở các cửa hàng hiện hữu như cách chúng tôi đã gợi ý ở phần trên.
Ngoài SSS ra, NĐT cá nhân có thể tính các loại doanh thu tương quan khác để so sánh giữa những công ty cùng ngành về hiệu quả hoạt động nếu có thể như doanh số trên mỗi m2 cửa hàng hoặc doanh số trên mỗi nhân viên bán hàng của công ty.
Tỷ suất sinh lời trên vốn đầu tư (ROIC):
Như đã đề cập trong một bài viết trước đây, tỷ suất sinh lời trên vốn đầu tư là một trong những chỉ số quan trọng nhất giúp ta phân biệt giữa một doanh nghiệp tuyệt vời và một doanh nghiệp tệ hại.
Đối với các hãng bán lẻ, đặc biệt nhóm hàng lâu bền mang tính chất chu kỳ, ta cần đánh giá hiệu quả ROIC của chúng qua 1 chu kỳ kinh tế nếu có thể. Như mọi khi, một mức ROIC >20% bền vững có thể được coi là khá tốt
Biên lợi nhuận ròng (net margin):
Ở các hãng bán lẻ, nếu cùng trong một phân khúc sản phẩm như 5 loại chúng tôi kể trên, mức biên lợi nhuận ròng “net margin” này có thể chỉ ra được hãng nào vượt trội khá rõ ràng.
Khác với các công ty sản xuất, hoặc các dịch vụ B2B với chi phí hoạt động không đáng kể, trong ngành bán lẻ, chi phí OPEX, giá vốn hay chi phí tài chính đều có tầm quan trọng ngang ngửa nhau. Do đó việc xem xét biên LN ròng là tương đối sát nhất.
Khi so sánh với mức trung bình thế giới, các hãng bán lẻ department stores, groceries lớn nhất đều có biên lợi nhuận ròng trong khoảng tư 2.5%-3.0%. Do đó, các hãng nào có biên lợi nhuận vượt trội khỏi mức này là khá tốt.
Dưới đây là con số biên LN ròng của một vài hãng bán lẻ niêm yết lớn tại Việt Nam hiện nay:
Vòng quay hàng tồn kho (inventory turnover):
Như chúng tôi đã nhấn mạnh về bí quyết quản trị hàng tồn kho ở phần trên, một trong những chỉ số để theo dõi là vòng quay hàng tồn kho (hoặc số ngày tồn kho).
Song, tùy vào đặc thù sản phẩm mà vòng quay hàng tồn kho của công ty có thể cao hay thấp. Chẳng hạn như các hãng bán lẻ hàng hóa giá trị cao như trang sức và ô tô sẽ có vòng quay hàng tồn kho trung bình thấp hơn đáng kể so với lĩnh vực bách hóa. Do đó, việc so sánh số ngày tồn kho giữa hai lĩnh vực khác nhau gần như vô nghĩa!
Thay vào đó, khi phân tích chỉ số này, NĐT cá nhân cần xem xu hướng lưu chuyển tồn kho qua các năm trong quá khứ. Đối với một số hãng bán lẻ chu kỳ, nếu hàng tồn kho của doanh nghiệp quay chậm lại thường là dấu hiệu đảo chiều tương đối tiêu cực.
Dòng tiền và nợ vay:
Tương tự vòng quay tồn kho, NĐT cá nhân cũng cần phải xem xét cẩn trọng xu hướng dòng tiền (cash flow) và nợ vay (debt) của công ty.
Nếu quý độc giả có thời gian xem qua báo cáo tài chính của các hãng e-commerce hàng đầu thế giới như Amazon, Alibaba và Rakuten của Nhật, ta sẽ thấy rằng tuy thua lỗ và có bảng cân đối kế toán tệ hại, nhưng các hãng này có dòng tiền tự do (free cash flow) khổng lồ đến hàng chục tỷ USD mỗi năm! Chính nhờ vậy, chúng xứng đáng (deserved) là cỗ máy tạo tiền tuyệt vời và được thị trường đánh giá rất cao.
2.3 Triển vọng tương lai
Trong việc dự báo tương lai của ngành bán lẻ, không có gì là chắc chắn. Ngay cả khi một công ty có tình hình tài chính mạnh và cung cấp dịch vụ tốt, nếu triển vọng ngành không khả quan, khoản đầu tư đó có thể không mang lại lợi nhuận như kỳ vọng.
Vì thế, quan sát cẩn trọng và thường xuyên cập nhật là điều thiết yếu để có cái nhìn đúng đắn. Có hai câu hỏi quan trọng để định hình triển vọng ngành bán lẻ mà nhà đầu tư cần lưu ý:
- Thứ nhất, ngành nghề tiêu dùng này có còn dư địa để thâm nhập vào đại bộ phận dân cư Việt Nam hay không? Và công ty có còn khả năng tăng trưởng thị phần không?
- Thứ hai, liệu có những yếu tố rủi ro tiềm ẩn từ việc thay đổi hành vi tiêu dùng mà có thể ảnh hưởng tiêu cực đến công ty không?
Đối với câu hỏi thứ nhất, nếu thị phần đã chạm ngưỡng cao (40-50%) hoặc mức độ tiêu thụ đã bão hòa, việc kỳ vọng tăng trưởng vượt bậc là không khả thi. Nhà đầu tư cũng cần cẩn trọng, không nên trả mức P/E quá cao vì mức giá này có thể không phản ánh đúng tiềm năng tăng trưởng thật sự, đặc biệt với những công ty vốn hóa lớn.
Đối với câu hỏi thứ hai, anh ta muốn biết những rủi ro bất ngờ có thể gây ảnh hưởng đến toàn bộ giá trị vô hình & lợi thế cạnh tranh của công ty mà anh ta tin tưởng.
Trong thời đại công nghệ 4.0, các nền tảng thương mại điện tử lớn với sự tiện lợi trong giao hàng và nhiều chương trình khuyến mãi đã dần thay thế các cửa hàng bán lẻ truyền thống, đặc biệt trong các lĩnh vực như quần áo, đồ điện tử, sách và đồ trang trí.
Đối với các ngành dịch vụ như nhà hàng hay giải trí, thay đổi thị hiếu của khách hàng trẻ cũng là một yếu tố đáng lo ngại, đặc biệt khi họ thường xuyên tìm kiếm những xu hướng mới. Rất nhiều chuỗi kinh doanh đã phải đóng cửa khi không kịp thích ứng với những thay đổi trong nhu cầu của tập khách hàng trẻ.
Vậy, làm thế nào để nhà đầu tư có thể nhận ra những xu hướng lớn này?
Đây thực sự là một câu hỏi khó. Một cách tiếp cận là phát triển khả năng quan sát nhạy bén, nghiên cứu xu hướng tiêu dùng quốc tế, thường xuyên trao đổi với các chuyên gia trong ngành, cập nhật tin tức và theo dõi các báo cáo phân tích chuyên sâu.
Những dữ liệu, góc nhìn từ các chuyên gia và báo cáo phân tích có thể mang lại những thông tin quý giá, giúp nhà đầu tư có được những đánh giá chính xác hơn về triển vọng của ngành.
2.4 Định giá
Việc định giá P/E thuần sẽ gây ra nhiều cạm bẫy trong một lĩnh vực tăng trưởng như bán lẻ. Điều này đặc biệt đúng với các lĩnh vực bán lẻ chu kỳ (cyclical retailing).
Với nhà đầu tư giá trị, khi mà P/E các hãng bán lẻ về mức thấp nhất thì nhiều khả năng đây là lúc đầu tư tồi nhất do lợi nhuận công ty đã đạt đỉnh, và lo ngại này đã phản ánh vào vốn hóa của công ty.
Do đó, ngài Peter Lynch đề xuất NĐT cá nhân sử dụng tỷ lệ PEG ratio, càng thấp càng tốt và thực sự hấp dẫn khi bé hơn 1 lần.
PEG (Price/Earnings to Growth ratio) là một chỉ số tài chính được sử dụng để đánh giá giá trị đầu tư của một công ty dựa trên tỷ lệ P/E (Price/Earnings ratio) và tốc độ tăng trưởng thu nhập của công ty đó.
Lưu ý rằng mức tăng trưởng dưới mẫu số phải là con số bền vững ở tương lai dài hạn và không quá cao đến mức ảo vọng. Con số dự phóng tăng trưởng lợi nhuận hàng chục % trong 1 năm của các CTCK không có ý nghĩa gì trong dài hạn cả, thậm chí còn sai lệch so với thực tế.
Ngoài ra, đối với các công ty e-commerce hoặc việc có được con số growth là quá khó, ta có thể thay thế bằng cách dùng tỷ lệ Giá/doanh thu (“price-to-sales, P/S”) để định giá cổ phiếu. Do doanh thu là một yếu tố rất quan trọng và đồng nhất giữa các hãng bán lẻ nên ta có thể so sánh tương đối được.
3 Kết luận
Tóm lại, bán lẻ là một ngành rộng lớn, tràn đầy cơ hội và đòi hỏi tư duy thông thoáng của một nhà kinh doanh để đầu tư thành công.
Tuy nhiên, với đặc thù thường mang tính chu kỳ, những hãng bán lẻ hàng lâu bền, luôn luôn bị thách thức bởi các đối thủ cạnh tranh và sự đe dọa liên tục từ công nghệ mới – chẳng hạn như e-commerce, do đó ngành bán lẻ đòi hỏi nhà đầu tư có kinh nghiệm và chiến lược hợp lý.
>>> Xem thêm: Các bài phân tích mới nhất tại đây.
>>> Xem thêm: Hướng dẫn mở tài khoản chứng khoán VPBankS
Tải ứng dụng đầu tư NEO Invest (VPBankS) tại đây hoặc quét mã QR:
SĐT/Zalo: 0909689963
Tổng hợp & TDStock