21/12/2024 11:39 sáng
Trong suốt nhiều năm quan sát thị trường chứng khoán Việt Nam, chưa bao giờ chúng tôi thấy sự đầu cơ lại lan rộng và phát triển nhanh chóng như hiện nay.

>>> Xem thêm: Tư duy đầu cơ sai lầm chỉ có tại ttck VN (kỳ 1)

Nếu giải thích cho việt thua lỗ và sự biến động lên xuống của thị trường chứng khoán kể từ những ngày đầu năm 2000, câu trả lời không thể tìm được ở bất cứ số liệu hay quy luật nào. Bởi câu trả lời nằm ở tâm lý, thứ chi phối hầu hết hành vi của loài người.

Khả năng cao và thứ tâm lý vốn có của những nhà đầu tư – đầu cơ cá nhân tại Việt Nam vẫn chưa thay đổi nhiều sau bao nhiêu năm trôi qua. Tất cả những gì họ chờ đợi là một lý do chính đáng (một thị trường tăng điểm, một nền kinh tế ngày càng tốt lên) để quay trở lại con đường đầu cơ trước đây của mình.

tư duy đầu cơ sai lầm - kỳ 2

Dù vậy, cùng chung quan điểm với Benjamin Graham, chúng tôi không nghĩ rằng đầu cơ là xấu xa hoàn toàn. Nhìn một cách khách quan, đầu cơ giúp tạo ra thanh khoản, san sẻ rủi ro về vị thế và huy động vốn cho các doanh nghiệp non trẻ. Luôn có những người đầu cơ thông minh và thành công trên thị trường.

Xong, sau thời gian dài quan sát trên thị trường, chúng tôi nhận thấy hầu hết các cá nhân đều không phù hợp với việc đầu cơ vì xét đến kỹ năng, kiến thức, và thời gian ít ỏi mà họ bỏ ra ngoài công việc chính. Việc mua cổ phiếu bằng nợ vay, mua cổ phiếu mới phát hành nóng nhất, hay mua cổ phiếu ở vùng giá cao ngất ngưỡng với niềm tin vào xu hướng tăng ấy sẽ tiếp tục đã đưa họ về trò chơi may rủi hệt như sòng bạc.

Những tư duy đầu cơ sai lầm chỉ có tại Việt Nam (kỳ 2)

4. Đầu cơ cổ phiếu chỉ thuần dựa vào dữ liệu mua – bán của khối ngoại

Việc mua theo dữ liệu mua ròng của nhà đầu tư nước ngoài (NĐTNN) thoạt nhìn không phải là một hành vi kém thông minh. Xét đến nhiều NĐTNN đã có kinh nghiệm hàng chục năm tại ttck VN, họ tiếp cận được nhiều thông tin kinh doanh quan trọng của doanh nghiệp và cá nhân không thể. Họ có kinh nghiệm tiếp xúc, đánh giá năng lực – độ tin cậy của ban quản trị. Họ có hội đồng thẩm định những thương vụ đầu tư lớn, họ có một đội ngũ analyst học vấn tốt được trả lương cao để theo dõi các thương vụ đầu tư một cách bài bản, v.v

tư duy đầu cơ sai lầm (kỳ2)

Tuy nhiên, sẽ là thảm hoạ nếu các nhân đầu cơ thuần theo khối ngoại khi mà:

  • Cổ phiếu được thao túng giá với vốn hoá tăng hàng trăm %, khối lượng cao (trao tay trái qua tay phải) để lọt vào quỹ chỉ số/ETF rebalancing một cách máy móc.
  • Cổ phiếu đó là một cổ phiếu chu kỳ đã ở pha cuối của chu kỳ tăng trưởng nóng, với lợi nhuận ở xác suất rất cao sẽ sụt giảm cộng với đòn bẩy nợ vay khổng lồ đang chực chờ.
  • Cổ phiếu đó có rủi ro quản trị “ẩn giấu” đến múc các nhà đầu tư nước ngoài nhiều năm kinh nghiệm cũng không thể nào nhìn nhận ra được.
  • Nguy hiểm hơn hết, cổ phiếu được thao túng tinh vi bởi ban quản trị biết cách sử dụng các công ty bình phong, SPV lập ở các đảo quốc thiên đường thuế để tiện tay thao túng giá (giả danh khối ngoại mua ròng).

Một sai lầm khác cũng nghiêm trọng không kém khi một nhà đầu cơ, một nhà đầu tư không vững tâm lý, bán ra toàn bộ vị thế của mình tại một cổ phiếu chất lượng với giá hời khi khối ngoại liên tục bán ròng cổ phiếu đó. Và qua đó bỏ lỡ mức tăng có thể thay đổi vị thế tài chính của anh ta nhiều năm sau đó, vì nhiều lý do.

Một vài case kình điểm đã được ghi nhận trong quá khứ như Đông Hải Bến Tre (HoSE: DHC) tăng mạnh x4 x5 năm 2020-2021 khi cổ đông Nhật thoái vốn. Tasco (HNX: HUT) tăng mạnh hơn 10 lần vốn hoá giai đoạn 2020-2021 sau khi quỹ nước ngoài thoái vốn và được một bên khác M&A. Thép Hoa Sen – Nam Kim (HoSE: HSG & NKG) tăng mạnh x5 x7 từ năm 2020 sau khi nhiều công ty nước ngoài thoái vốn. Nhà phát triển BĐS uy tín Khang Điền (HoSE: KDH) tăng mạnh x2 x3 vốn hoá khi cổ đông nước ngoài lâu năm bán lại cho hội đồng quản trị, …

Vì vậy, dữ liệu mua ròng của khối ngoại chỉ nên được xem như một trong những ưu điểm của cổ phiếu – rằng đang có một số NĐT kinh nghiệm đồng tình về triển vọng của cổ phiếu đó. Việc đánh giá cổ phiếu theo đúng quy trình (định tính – định lượng – biên an toàn) vẫn cần thực hiện một cách kỹ lưỡng, không chủ quan.

Ngược lại, nếu chẳng may cổ phiếu quan tâm bị bán ròng mạnh bởi khối ngoại, ta cũng không nên lung lay ý chí. Thay vào đó, hãy kiểm tra rủi ro (quản trị, chu kỳ, suy giảm lợi thế cạnh tranh, hay rủi ro chính sách) nào mà ta chưa biết. Hay đó chỉ đơn thuần là hoạt động tái cơ cấu của quỹ ETF, hoạt động giải thể quỹ, hoạt động rút vốn bình thường của các foreign funds. Ở đây, tinh thần tư duy phản biện, liên tục tự kiểm tra kiểm điểm là cực quan trọng.

5. Đầu cơ BĐS thời kỳ lạm phát cao vì kỳ vọng chính phủ bơm tiền, nới lỏng định lượng

Không thể phủ nhận cổ phiếu BĐS giai đoạn 2021 đã đạt được mức tăng trưởng đáng ghen tỵ giúp nhiều công ty từ quy mô vừa và nhỏ tăng lên hàng tỷ USD chỉ trong thời gian ngắn. Đem lại lợi nhuận khổng lồ cho vô số nhà đầu cơ khôn ngoan đi trước đám đông và “biết dừng lại đúng lúc”.

Tuy nhiên, với các nhà đầu cơ cuối cùng mua phải mức giá 10x-12x book value, hàng chục lần doanh thu chuyển nhượng BĐS hoặc trên giá trị DCF từ những dự án bất khả thi, thì thảm hoạ tài chính đã đến với họ sớm sau đó. Nhiều nhà đầu tư đã phải chấm dứt con đường đầu tư của mình một cách đáng tiếc.

“Hoạ vô đơn chí, phúc bất trùng lai”

Sau sự kiện may mắn đấu giá đất Thủ Thiêm gây sốt đất một cách bất ngờ, chỉ trong phút chốc, hàng loạt tai hoạ đã ập đến với nhóm cổ phiếu này:

  • FED tăng lãi suất rất dốc để chống lại lạm phát, điều mà rất nhiều người đã từng trải qua chu kỳ trước đã cảnh báo, từ 0.25% ->5%. Dẫn đến việc thắt chặt tiền tệ tương tự từ Ngân hàng Nhà nước hòng bảo vệ tỷ giá USD/VND, trái ngược hoàn toàn với kỳ vọng “bơm tiền” trước đó.
  • Rủi ro Bộ Chính Trị thay đổi ý chí đối với lĩnh vực BĐS, như bài học của người láng giềng đã có trước đó 1-2 năm.
  • Kênh huy động trái phiếu doanh nghiệp sụp đổ. Hàng loạt các công ty chính thức tuyên bố vỡ nợ (defaulted) gốc + lãi trái phiếu như Novaland, Đất Xanh, Hưng Thịnh và 54 doanh nghiệp khác gây khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng trên toàn hệ thống.
  • Sự hoảng loạn gây nên margin-call cổ phiếu kể cả ban lãnh đạo của nhiều DN BĐS.

Giai đoạn đớn đau đó đã cho chúng ta thấy, lạm phát cao là kẻ thù của mọi kênh đầu tư (trừ mỗi một đồng USD do được hỗ trợ bởi chu kỳ tăng lãi suất của FED). Song về lâu dài, kênh cổ phiếu đã tự chứng minh rằng, nó vẫn là kênh tăng trưởng tốt nhất. Vì dần dà corporate earning sẽ bắt kịp, thậm chí tăng trưởng vượt lạm phát với hầu hết các ngành nghề thiết yếu, chu kỳ hoặc không bị lỗi thời. Tuy nhiên, những nhà đầu cơ cổ phiếu BĐS bằng margin đã không còn cơ hội trở lại khi đã bị quét sạch vốn liếng.

Nếu chúng ra nhìn nhận một cách khách quan, thì đã có một quy luật tự nhiên nhất định. Khi đối mặt với khó khăn dịch bệnh, chính sách lãi suất gần 0% của FED và <5% của NHNN VN đã tại ra thời kỳ tiền rẻ quá mức – tạo nên sự thịnh vượng khắp nơi và gây lên lạm phát. Rồi từ đó lạm phát lại khởi đầu cho chính sách thắt chặt tiền tệ gây suy thoái – khủng hoảng nghiêm trọng sau đó…

Đúng như một nhà thông thái cổ xưa đã từng đúc kết:

“This, too, shall pass”
(Thứ này, rồi cũng sẽ qua thôi)

Câu này cần được ghi nhớ trong mỗi chúng ta khi đối mặt với cả thịnh lẫn suy.

6. Đầu tư cổ phiếu bảo hiểm vì kỳ vọng lãi suất tăng giúp lượng tiền gửi ngân hàng được hưởng lợi.

Có thể thấy được lập luận trên là khá logic, khi mà lượng tiền gửi trung bình của mỗi công ty bảo hiểm trung bình lên tới vài nghìn tỷ. Cá biệt như case BVH có thể lên đến 110 nghìn tỷ. Do đó, bất cứ mức tăng lãi suất nào tầm 3%-4% từ NHTW và khối NHTM đều ảnh hưởng trọng yếu đến earning và ROE của ngành.

Tuy nhiên, câu chuyện lãi suất tăng sẽ ảnh hưởng sâu rộng hơn các chuyên gia nghĩ:

  • Lãi suất tăng sẽ làm suy giảm nghiêm trọng đến nhu cầu vay thế chấp mua nhà thả nổi (adjustable-rate mortgage). Đây cũng là phần khách hàng chiếm tỷ trọng lớn nhất trong kênh bancassurance của hầu hết các DN bảo hiểm.
  • Lãi suất tăng sẽ ảnh hưởng đến hàng loạt các doanh nghiệp sản xuất & dịch vụ & tài chính – bất động sản vay nợ cao, giản tiếp làm suy giảm nhu cầu mua bảo hiểm phi nhân thọ để mở rộng kinh doanh của họ.
  • Lãi suất tăng sẽ làm danh mục Trái phiếu Chính phủ & Trái phiếu Doanh nghiệp mua ở mức yield thấp (thị giá cao) suy giảm giá trị thị trường nghiêm trọng, dù chúng ta không nhìn thấy trên bảng cân đối kế toán (do chuẩn kế toán VAS không giống như IFRS), buộc tổ chức tài chính phải hạch toán giá trái phiếu theo thị trường.
  • Cuối cùng, lãi suất tăng sẽ ảnh hưởng lên các nhà đầu tư vay nợ margin, buộc họ phải bán tháo vì margin-call hoặc hoảng sợ rút chạy, ảnh hưởng mạnh lên thị trường cổ phiếu. Gián tiếp ảnh hưởng lên danh mục đầu tư cổ phiếu của các công ty bảo hiểm và giá cổ phiếu của chính công ty bảo hiểm đó. 

Như vậy, khi lãi suất NHTW tăng 300-400 điểm cơ bản các công ty bảo hiểm chỉ được tăng thêm đâu đó vài chục tỷ đến vài trăm tỷ lợi nhuận đột biến một lần do danh mục tiền gửi. Song thiệt hại về doanh thu thuần – lợi nhuận gộp bảo hiểm lại cực kỳ lớn. Qua đó, kỳ vọng đầu cơ ngành bảo hiểm vì lãi suất tăng sẽ sớm trở thành nỗi thất vọng.

Dù vậy, bảo hiểm vẫn là một ngành hấp dẫn:

  • Bảo hiểm cũng như ngân hàng, là ngành kinh doanh tiền tệ có tiềm năng tăng trưởng vô tận theo sự phát triển của cung tiền giấy M2 – “unlimited growth” như đúc kết của cả gia đình ngài Chris Davis đã đầu tư nhóm tài chính gần 100 năm.
tu-duy-dau-co-sai-lam
  • Bảo hiểm không cần đầu tư capex để tăng trưởng, trái với các nhóm luôn luôn nặng tài sản cố định như vận tải, thép, điện lực, v.v.
  • Tiềm năng dân số và tăng trưởng thu nhập của Việt Nam trong vài thập kỷ tới vẫn còn rất lớn.
  • Những công ty bảo hiểm quản lý chi phí bồi thường, hoa hồng môi giới và quản lý doanh nghiệp tốt vẫn sẽ đem lại mức ROE 15%-20% đều đặn cho các cổ đông trung thành.

Tuy nhiên, bảo hiểm (cũng như nhiều nhóm tổ chức tài chính khác) là một nghề chu kỳ và mang tính đòn bẩy hoạt động cao. Do đó, đòi hỏi nhà đầu tư phải am hiểu bảng cân đối kế toán, rủi ro chu kỳ – rủi ro lãi suất/vĩ mô, và biết cách định giá, điều chỉnh book-value đối với các tài sản xấu một cách hợp lý để ra được mức biên an toàn phù hợp.

7. Đầu cơ timing chi số (Index) về vùng cảm tính 900 hoặc 800 điểm mới bắt đầu mua, hoặc cổ phiếu X về vùng [5.0] hoặc [10.0] mới bắt đầu xem xét, và ngược lại.

Trong quyển “Nhà đầu tư thông minh”, Benjamin Graham đã chó thấy có hai cách mà một nhà đầu tư có thể tận dụng được những sự biến động điên rồ của thị trường:

  • Một, anh ra canh ra vào bằng thời điểm (timing)
  • Hai, anh ta hành động dựa trên cơ sở định giá doanh nghiệp & thị trường. Tức mua khi rẻ và bán khi đắt (pricing).

Đối với phương án thứ nhất, sau nhiều thập kỷ trải nghiệm trên thị trường chứng khoán, Benjamin Graham đã đúc kết lại rằng: “Trong phân tích thị trường, bạn không hề có biên an toàn, bạn chỉ có thể đúng hoặc sai. Nếu bạn sai, bạn sẽ mất rất nhiều tiền”. Mất nhiều tiền ở đây ngoài vốn liếng, còn mất chi phí cơ hội khổng lồ.

Như vậy, một nhà đầu cơ theo “timing” ở vế trước có thể mắc sai lầm nghiêm trọng ở cả hai hướng.

Thứ nhất, ở trường hợp khi kinh tế suy thoái, thị trường giá xuống (bear market), anh ta chờ một ngưỡng hỗ trợ kỹ thuật nào đó tầm 600-800 điểm tròn trĩnh để bắt đầu giải ngân mua vào các cổ phiếu giá hời. Nếu thị trường thực sự về mức giá đó, anh ta sẽ lời to. Ngược lại, nếu nó chỉ về tới 900 điểm rồi tăng trưởng vĩnh viễn chẳng hạn, anh ta hầu như sẽ bị một mỏ neo trong tâm lý dẫn đến việc rất khó chấp nhận rằng thị trường sẽ không về mức giá đó nữa, để rồi chịu một chi phí cơ hội khổng lồ.

Trong khi đó, một nhà đầu tư dài hạn theo hướng “pricing”, khi anh anh ta nhận ra chỉ số (Index) của ttck cổ phiếu X mà anh ta theo dõi về một vùng giá khá rẻ so với normalized earnings, book-value và triển vọng. Đồng thời, giá của nó đã phản ánh tương đối gần hết các rủi ro mà thị trường lo ngại. Anh ta hoàn toàn có thể tự tin giải ngân khi biên an toàn đang đứng về phía anh ta, dù cho anh ta có timing không chính xác ngay đáy của thị trường lẫn cổ phiếu. Với phong cách đầu tư này, anh ta cũng không quan tâm quá nhiều đến dự đoán thị trường hay vĩ mô có thể gây sai sót lớn, mà anh ta chỉ tập trung vào chọn đúng cổ phiếu (stock-picking), thứ nằm trong tầm hiểu biết của anh ta và hạn chế sai sót đáng kể.

Những nhà đầu cơ giởi timing có thể đúng về chỉ số, hay một ngành nghề, song nếu lựa chọn sai doanh nghiệp (với bảng cân đối kế toán tệ hại, ban quản trị không đáng tin cậy, định giá cao ngất ngưỡng, v.v) vẫn chưa chắt có được lợi nhuận thoả đáng trong dài hạn.

Thứ hai, trong bối cảnh thịnh vượng (bull market), những nhà đầu tư lạc quan quá mức chờ đợi một mức giá tròn trĩnh nào đó nhơ VN-Index đạt 1800, hay cổ phiếu BĐS giá [500], thì mới bắt đầu chốt lời chẳng hạn, sẽ không nhìn ra rằng nó đang ở cuối chu kỳ và khả năng đảo chiều là rất lớn. Đồng thời, mức định giá hay giá trị thực đang quá cao đến mức downside tiền năng có thể lên đến -60% đến 90%.

Một lần nữa, những người tập trung vào doanh nghiệp, vào “pricing”, vào định giá sẽ nhận ra mức biên an toàn đang ở mức âm, nên bán ra, hoặc tạm thời đứng xa những case nguy hiểm như thế để tránh các sai lầm chí mạng.

Song ở đây, chúng tôi cần phải cảnh báo với những nhà đầu tư quan tâm đến “pricing” vẫn có những trường hợp sai lầm vì căn bệnh ham rẻ. Tức vấp phải các “value traps”.

Kết luận

Như Benjamin Graham đã dặn dò:

“Nếu bạn phải đầu cơ mà không thể cưỡng lại được, hãy làm thế với đôi mắt mở to, nhận được nhiều khả năng sau cùng bạn sẽ thua lỗ mà thôi! Hãy tách biệt hoàn toàn chương trình đầu cơ ra khỏi tư duy, ra khỏi tài khoản đầu tư chính và chỉ nên dành tối đa 5% đến 10% danh mục để tìm kiếm niềm vui hơn kiếm tiền nghiêm túc, và không nên nạp thêm tiền vào tài khoản đầu cơ này vì lạc quan quá mức.”

tu-duy-dau-co-sai-lam

>>> Xem thêm: Các bài phân tích mới nhất tại đây.

>>> Xem thêmCách mở tài khoản chứng khoán VPBankS online free

Mở tk chứng khoán VPBankS tại đây hoặc quét mã QR:

mot-tai-khoan-chung-khoan-online-vpbanks-ma-qr

SĐT/Zalo: 0909689963

TDStock

Tác giả

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *